25 năm giảng dạy mầm non
Xã Thanh Quân là xã cuối cùng của huyện Như Xuân nằm giáp ranh với huyện Quỳ Châu, Quế Phong (Nghệ An) và huyện Thường Xuân (Thanh Hóa) với người Thái chiếm khoảng 95%, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng nơi đây đang dần đổi thay vươn lên.
Giữa tháng 11 khi Ngày Nhà giáo Việt Nam sắp tới, chúng tôi vượt gần 100km để đến thăm Trường mầm non Thanh Quân, nơi có 4 thầy giáo mầm non là Lương Văn Cường, Hoàng Thanh Tình, Vi Văn Tiến và Vi Văn Dương đang tận tụy nuôi dạy trẻ mỗi ngày.
“Năm 1996 mấy anh em chúng tôi thấy thông báo tuyển sinh nên cùng nhau đăng ký đi học sơ cấp ở trung tâm huyện một thời gian, rồi cùng về quê băng rừng, vượt suối vào các bản dạy trẻ”, thầy Cường kể lại.Vừa bước vào trường chúng tôi đã bắt gặp thầy Lương Văn Cường (SN 1971) đang cưa cây luồng làm đồ chơi cho các em học sinh. Thầy vui vẻ tiếp chuyện chúng tôi và kể về chuyện nghề của những giáo viên nam dạy mầm non như thầy.
Theo thầy Cường, thời điểm đó trong xã Thanh Quân chưa có trường mầm non, lại là vùng đặc biệt khó khăn, vẫn còn nhiều hủ tục lạc hậu nên chính quyền địa phương phải vận động thanh niên đi học để về dạy học cho trẻ.
Khi đó, có tất cả 6 người nam được cử đi học nhưng chỉ có 5 người theo tới cùng. Lúc về các bản giảng dạy, các thầy được địa phương trợ cấp 50kg thóc mỗi tháng.
Các thầy và học trò trong một giờ ngoại khóa. |
Việc nuôi dạy trẻ mầm non đối với giáo viên nữ đã vất vả nhưng đối với giáo viên nam còn khó khăn gấp nhiều lần trong việc dỗ dành, múa hát, cho trẻ ăn uống, vệ sinh… Tuy nhiên, với lòng yêu trẻ, tâm huyết với nghề, các thầy càng cố gắng hơn để nâng cao chuyên môn của mình.
Kể từ ngày đầu đi dạy đến nay đã 25 năm trôi qua, các thầy vẫn lên lớp hằng ngày, chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ, cùng học cùng chơi với các em thơ như những người cha thứ 2.
Mong ước con em được đến trường
Cả 4 thầy giáo đều là người Thái sinh ra và lớn lên ở xã Thanh Quân nên mong muốn lớn nhất của các thầy là trẻ em nơi đây được đến lớp, đến trường đầy đủ. Chỉ có tri thức mới giúp xóa bỏ cái đói, cái nghèo, hủ tục và xây dựng quê hương ngày thêm đẹp đẽ.
Thầy Vi Văn Dương (SN 1967) lập gia đình năm 1989 rồi đến năm 1996 mới theo học sư phạm mầm non. Vậy nên thầy càng hiểu về giá trị của việc con em được tới trường tiếp cận với ánh sáng tri thức.
Thầy Dương tâm sự: “Trước đây do tình trạng dân trí thấp nên khó có bé gái nào được học hết lớp 9. Vậy nên khi thấy thông báo tuyển sinh giáo viên mầm non tôi đã đắn đo, suy nghĩ rồi quyết định đăng ký theo học với mong muốn sau này giảng dạy cho cả con em mình”.
Thầy Vi Văn Dương trong tiết dạy học. |
Đa số học trò đều là người Thái nên khi đến lớp thầy Dương phải làm cầu nối phiên dịch qua lại giữa tiếng dân tộc Thái và tiếng phổ thông để giúp các em hiểu về bài học. Đồng thời thầy cũng dặn dò phụ huynh nói chuyện với con em thì thường xuyên dùng tiếng phổ thông để các em quen hơn.
Chia sẻ về kỷ niệm những ngày đầu theo giáo dục mầm non, thầy Hoàng Thanh Tình (SN 1974) cho biết: “Ban đầu đi học tôi còn bỡ ngỡ nhưng sau được gia đình ủng hộ, bạn bè giúp đỡ thì tôi cũng dần quen với việc học các môn múa, làm đồ chơi… Khi về các bản giảng dạy thấy được sự khó khăn, vất vả của cả trò và gia đình thì tôi càng cố gắng hơn với công việc đã chọn”.
Ở những năm tháng khó khăn, các thầy đã băng rừng, vượt suối đến các bản giảng dạy, thậm chí phải đến từng nhà để vận động đưa các em đến lớp. Đi dạy học mà các thầy còn mang theo đồ dùng cá nhân như dầu gội, xà phòng để tắm rửa cho các em.
Đánh mỏ gọi học sinh đến lớp
Khi nhắc về lý do mình chọn nghề giáo, thầy Lương Văn Cường bồi hồi nhớ lại: “Ngày tôi học xong cấp 2 (năm 1994) thì có chị hàng xóm nhờ dạy trẻ tiểu học cách đánh vần, đọc chữ, học bảng cửu chương… Từ chuyện đó tôi thấy thích ngành sư phạm nên đăng ký đi học làm giáo viên mầm non. Tôi cũng muốn xóa đi những hủ tục, cái đói nghèo bằng tri thức để xây dựng quê hương giàu đẹp”.
Theo thầy Cường, khi về bản do địa hình chủ yếu là đồi núi, nhiều sông suối nên để trẻ đến lớp đầy đủ là cả một vấn đề nan giải đối với giáo viên. Các thầy phải đi tuyên truyền, vận động để đưa trẻ đến lớp nhưng chỉ được ngày 1, ngày 2 rồi lại đâu vào đó. Cũng chính vì như thế nên các thầy nảy ra nhiều ý tưởng thu hút học sinh hơn.
“Ở các điểm lẻ thì nhà dân phân bố rải rác ở các sườn đồi, núi nên việc đến lớp gặp nhiều khó khăn, nếu mà đi gọi từng trẻ đến lớp thì sẽ mất gần 1 buổi học nên tôi đã đề xuất với trưởng bản là sẽ dùng mỏ đánh (cái mỏ làm bằng gỗ – PV) để gọi các em đến lớp. Cũng từ đó việc lên lớp của chúng tôi cũng thuận tiện hơn”, thầy Cường chia sẻ.
Không chỉ đưa, đón, dạy trẻ học văn hóa, múa hát, tạo hình,… mỗi buổi trưa các thầy lại thay nhau mang cơm đến các điểm lẻ rồi cùng các đồng nghiệp cho học sinh ăn uống và chăm sóc giấc ngủ cho các em. Ở những thầy giáo mầm non này, chúng tôi thực sự cảm nhận được trái tim ấm áp và lòng tận tụy với nghề giáo cao quý.